Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Tử Lộ
khó bền 庫卞
tt. <Nho> dịch chữ cố cùng 固窮 (cùng: khó; cố: bền). Luận Ngữ thiên Vệ linh công có đoạn: “khi Khổng Tử ở nước trần thì bị hết lương thực, các đệ tử đi theo sinh bệnh, không dậy được. Tử Lộ lo lắng hỏi: ‘quân tử mà cũng có lúc khốn cùng thế này sao?’ Khổng Tử trả lời: ‘quân tử lúc khốn cùng vẫn bền chí giữ tiết, tiểu nhân khốn cùng thì làm bậy’” (在陳絕糧,從者病,莫能興。子路慍見曰:“君子亦有窮乎?”子曰:“君子固窮,小人窮斯濫矣). Khó bền, mới phải người quân tử, mình gắng, thì nên kẻ trượng phu. (Trần tình 43.5).
làm lành 𫜵冷 / 𬈋冷
đgt. <Nho> dịch chữ vi thiện 為善 (hành thiện, làm việc thiện). Sách Mạnh Tử thiên Công tôn sửu thượng có đoạn: “Mạnh Tử nói: Tử Lộ kia, người ta đem chuyện lỗi lầm nói với nó thì nó lại vui. Trong khi, vua vũ nghe điều thiện thì vái lạy. Vua Thuấn cao hơn cả, cùng người làm việc thiện. Bỏ ý của riêng mình mà thuận theo ý của dân, dân vui thì cho đó là làm điều thiện.tự cày, tự gieo hạt, tự đào giếng, tự câu cá cho đến làm vua, không có việc nào là không theo dân. Theo dân là làm điều thiện, ấy là cùng dân làm điều thiện vậy. Cho nên, quân tử không có việc gì quan trọng bằng việc làm điều thiện cùng với dân.” (孟子曰:“子路,人告之以有過則喜。禹聞善言則拜。大舜有大焉,善與人同。舍己從人,樂取於人以為善。自耕、稼、陶、漁以至為帝,無非取於人者。取諸人以為善,是與人為善者也。故君子莫大乎與人為善). hậu Hán Thư phần Liệt truyện ghi: “Có hôm hỏi Đông Bình Vương rằng ở nhà thì việc gì là vui nhất. Vương trả lời rằng làm thiện là vui nhất, lời ấy thực cao rộng, thực đáng là lời nằm lòng.” (日者問東平王處家何等最樂,王言為善最樂,其言甚大,副是要腹矣). Nguyễn Trãi từng viết: “sửa mình mới biết thiện là vui” (修己但知善為樂 tu kỷ đãn tri thiện vi lạc). Làm lành mới cậy chớ làm dữ, có đức thì hơn nữa có tài. (Tự thán 92.5, 99.8)‖ (Bảo kính 147.5).
mài chăng khuyết 𥕄庄鈌
đc. dịch từ câu ma nhi bất lân 磨而不磷. Thời Xuân Thu, Khổng Tử bị giới chính trị của nước Lỗ bài xích. Ông bèn dẫn học trò chu du liệt quốc, qua các nước Vệ, tống,… nhưng đều không được coi trọng, nhưng dù ở Hoàn Cảnh nào ông vẫn kiên trì theo cái đọa của mình. Trong thiên Dương hoá sách Luận Ngữ có chép một đoạn như sau: “Phật Bật triệu, Khổng Tử toan đi. Tử Lộ nói: trước kia, do này có nghe thầy dạy rằng: “người quân tử không đến nơi kẻ đích thân làm điều bất thiện”. Phật Bật chiếm đất trung mâu để làm phản. Nay thầy lại định đến đó, là nghĩa làm sao? Khổng Tử nói: phải, ta có nói thế. Nhưng ta há chẳng nói: “vật gì thật bền, mài cũng chẳng mòn?”, ta há chẳng nói: “vật gì thật trắng, nhuộm cũng chẳng đen” đó sao? ta há phải quả bầu? sao có thể treo chứ không ăn?” (佛肸召。子欲往。子路曰:昔者,由也聞諸夫子曰:親於其身為不善者,君子不入也。佛肸以中牟畔,子之往也,如之何?子曰:然,有是言也,不曰:堅乎?磨而不磷?不曰:白乎,涅而不緇?吾豈匏瓜也哉,焉能繫而不食?). Bui có một lòng trung miễn hiếu, mài chăng khuyết nhuộm chăng đen. (Thuật hứng 69.8).
nhọc 辱 / 𢟲
◎ Nôm: 辱
tt. đgt. mệt mỏi, cực khổ [Paulus của 1895: 749]. (Thuật hứng 55.2, 64.4). Nhọc nhằn. Mỏi nhọc. Mệt nhọc. Nhọc công. Nhọc sức [Taberd 1838: 362]‖ (Tự thán 82.1, 85.1)‖ (Bảo kính 129.2)‖ Nẻo khỏi tiểu nhân quân tử nhọc, dầu chăng quân tử tiểu nhân loàn. (Bảo kính 133.3), dịch câu 無野人莫養君子無君子莫治野人 vô dã nhân mạc dưỡng quân tử, vô quân tử mạc trị dã nhân (Mạnh Tử- đằng văn công thượng)‖ (135.8, 146.6, 172.7, 177.6)‖ (Giới nộ 191.2).
đgt. HVVD <từ cổ> làm cho mệt nhọc, làm phiền đến, ảnh hưởng từ cấu trúc sử động trong văn ngôn. Sách Luận Ngữ thiên Tử Lộ ghi: “Đi sứ tứ phương, chẳng làm nhục đến mệnh vua” (使于四方,不辱君命 sứ vu tứ phương, bất nhục quân mệnh). Truyền tin chẳng lọ nhọc thanh đồng, cổi lòng xuân làm sứ thông. (Thái cầu 253.1).